Mục đích giúp bạn đọc tiện tra cứu và có cái nhìn tổng quan về lịch sử Việt Nam, từ thời Hồng Bàng đến thời Cận Kim Thời Đại – gần hết thời nhà Nguyễn (được chép đến lúc vua Hàm Nghi bị bắt năm 1888).
Nguồn tham khảo chủ yếu dựa trên sách Việt Nam Sử Lược (Ấn bản kỷ niệm 100 năm 1920-2020) của tác giả Trần Trọng Kim.
Đây là bản tóm tắt bằng ý hiểu và giọng văn của tôi, sau khi đọc hết sách Việt Nam Sử Lược – Trần Trọng Kim. Bài viết mang tính chủ quan nên không tránh khỏi sai sót, mong bạn đọc bình luận và góp ý để bài viết này được đầy đủ, chính xác hơn. Sắp tới sẽ được bổ sung giai đoạn từ năm 1888 – 2000, sau khi tôi đọc xong bộ sách Lịch sử quân sự Việt Nam.
Trước Công Nguyên (TCN)
2879 – 258 TCN
Họ Hồng Bàng
Đế Minh là cháu ba đời của vua Thần Nông (vua ở Trung Quốc 2737-2697 TCN), sau khi đi tuần thú thì gặp một nàng tiên, lấy nhau và đẻ ra Đế Nghi (con trưởng) và Lộc Tục. Sau đó ông truyền ngôi lại, cho hai người con cai quản phương bắc và nam. Đế Nghi làm vua phương bắc, Lộc Tục làm vua phương nam. Lộc Tục xưng là Kinh Dương Vương, quốc hiệu là Xích Quỷ. Kinh Dương Vương lấy Long Nữ đẻ ra Sùng Lãm (Lạc Long Quân). Sau khi lên làm vua, Lạc Long Quân lấy con gái vua Đế Lai tên là Âu Cơ, đẻ ra được 100 người con như sự tích.
Lạc Long Quân cho con trưởng làm vua nước Văn Lang, xưng là Hùng Vương. Họ Hồng Bàng làm vua được 18 đời. Tính trung bình từ năm 2879 – 258, nếu chia đều thì mỗi ông vua trị vì trên 100 năm.
Về truyện cổ tích thời Hồng Bàng có: Phù Đổng Thiên Vương – Thánh Gióng đời Hùng Vương thứ 6 và Sơn Tinh, Thuỷ Tinh đời Hùng Vương thứ 18.
Quốc sử nước ta có từ cuối thế kỷ 13, đời vua Thánh Tông nhà Trần, có bộ Đại Việt sử ký chép từ thời Triệu Vũ Vương (207 TCN) đến Lý Chiêu Hoàn (1225) bởi ông Lê Văn Hưu. Tiếp theo đến thế kỷ 15, đời vua Thánh Tông nhà Lê, có ông Ngô Sĩ Liên soạn bộ Đại Việt sử ký toàn thư chép từ thời Hồng Bàng (2879 TCN) đến vua Lê Thái Tổ (1428). Tóm lại là từ thế kỷ 15 trở đi thì sử ta mới chép chuyện từ thời Hồng Bàng (cách biệt hơn mấy nghìn năm), nên về khoảng thời gian và một số sự tích có thể chưa chính xác.
257 – 207 TCN
Nhà Thục
Nhà Thục không phải là nước Thục ở Trung Quốc. Sử ghi rằng Thục Vương hỏi cưới con gái của Hùng Vương thứ 18 là Mị Nương không được, tức giận và dặn con cháu sau này đánh lấy nước Văn Lang bằng được. Sau đó văn Lang bị cháu của Thục Vương tên là Phán đánh làm cho Hùng Vương thua chạy, nhảy xuống giếng tự tử. Năm 257 TCN (Giáp Thìn), Thục Vương chiếm được Văn Lang rồi lên ngôi xưng là An Dương Vương, cải quốc hiệu là Âu Lạc, đóng đô ở Phong Khê (hiện tại là Đông Anh, Hà Nội). Ông cho xây Loa Thành, có tên gọi đấy là do hình dạng xoắn ốc cao dần khi nhìn từ ngoài vào.
Năm 214 TCN, Tần Thuỷ Hoàng ở Trung Quốc sai tướng là Đồ Thư đi lấy đất Bách Việt. An Dương Vương thấy thế cũng xin thần phục nhà Tần. Sau đó nhà Tần chia Bách Việt và Âu Lạc ra làm ba quận: Nam Hải (Quảng Đông), Quế Lâm (Quảng Tây), Tượng Quận (Bắc Việt).
Năm 208 TCN (Quý Tỵ) là năm thứ 50 đời vua An Dương Vương, Triệu Đà (quan uý quận Nam Hải) đem quân sang đánh Âu Lạc, lập ra nước Nam Việt (Không giống nước Nam Việt ở sau). Trong lúc này có sự tích Trọng Thuỷ, Mị Châu với cây nỏ thần của thần Kim Quy.
207 – 111 TCN
Nhà Triệu
Năm 207 TCN, Triệu Đà chiếm được Âu Lạc và xác nhập với Nam Hải, thành lập một nước gọi là Nam Việt, xưng là Vũ Vương, đóng đô ở Phiên Ngung (Thành cổ ở Quảng Đông, Trung Quốc).
Năm 137 TCN (Giáp Thìn), Triệu Vũ Vương mất, thọ 121 tuổi, làm vua được 70 năm. Sau đó lần lượt là Triệu Văn Vương (137 – 125 TCN), Triệu Minh Vương (125 – 113 TCN), Triệu Ai Vương (113 TCN), Triệu Dương Vương.
Vua Vũ Đế nhà Hán sai Lộ Bác Đức, Dương Bộc đem 5 đạo quân sang lấy Nam Việt, giết được vua Dương Vương. Năm 111 TCN, nước Nam Việt bị người Hán chiếm và cải là Giao Chỉ bộ, chia ra 9 quận và đặt hệ thông quan cai trị như các quận bên Tàu.
111 TCN – 39 SCN
Bắc thuộc lần thứ nhất
Sau Công Nguyên (SCN)

Đang
Update
Vẫn
Còn

